Nông nghiệp hữu cơ - hướng đi tất yếu
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, tài nguyên đất và nước chịu nhiều sức ép, trong khi thị trường nông sản liên tục nâng cao các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc, nông nghiệp hữu cơ không còn là lựa chọn mang tính thử nghiệm.
Tại tỉnh Tây Ninh, từ chủ trương của ngành Nông nghiệp đến thực tiễn trên đồng ruộng, xu hướng sản xuất xanh, sạch, bền vững đang từng bước hình thành rõ nét, trở thành hướng đi tất yếu cho nền nông nghiệp địa phương.
Từ “làm nhiều” sang “làm sạch”
Trong nhiều năm, nông nghiệp của tỉnh phát triển dựa trên mục tiêu tăng năng suất, sản lượng. Phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật từng được xem trọng bởi giúp cây trồng sinh trưởng nhanh, cho thu hoạch sớm. Tuy nhiên, mặt trái của phương thức này ngày càng bộc lộ rõ khi đất canh tác cằn cỗi, sâu, bệnh gia tăng, chi phí đầu vào cao, trong khi giá nông sản phụ thuộc lớn vào thị trường ngắn hạn, tiềm ẩn nhiều rủi ro.Cùng lúc đó, nhu cầu tiêu dùng thay đổi mạnh mẽ. Người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến yếu tố an toàn, sức khỏe và môi trường; các thị trường xuất khẩu lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên minh châu Âu (EU) đặt ra hàng rào kỹ thuật nghiêm ngặt, buộc nông sản phải minh bạch về quy trình sản xuất, giảm dư lượng hóa chất và phát thải. Trước yêu cầu đó, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh học trở thành xu thế tất yếu, đòi hỏi sự thay đổi từ tư duy đến hành động của người sản xuất.
Nông dân áp dụng biện pháp sinh học trong quản lý sâu, bệnh, giảm phụ thuộc thuốc bảo vệ thực vật hóa học
Sự chuyển dịch ấy thể hiện rõ trong câu chuyện của những nông dân trồng thanh long tại Tây Ninh. Ông Nguyễn Triệu Long (ngụ xã An Lục Long) từng canh tác theo lối truyền thống, quen sử dụng phân bón, thuốc hóa học. Giai đoạn đầu, cây phát triển nhanh, năng suất cao nhưng sâu, bệnh phát sinh nhiều, chi phí tăng mạnh, trong khi đầu ra phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc với giá cả bấp bênh.
Nhận thấy cách làm này không bền vững, hơn 10 năm trước, ông Long quyết định chuyển sang sản xuất thanh long theo hướng hữu cơ, sinh học. Đây là bước ngoặt không dễ dàng khi giai đoạn đầu đòi hỏi sự kiên trì, tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật và chấp nhận lợi nhuận chưa cao. Tuy nhiên, theo thời gian, vườn thanh long khỏe hơn, ít sâu, bệnh, trái đạt chất lượng tốt và đủ điều kiện tiếp cận các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, EU. Đặc biệt, so với canh tác theo phương thức truyền thống, chi phí phân bón giảm khoảng 20-30% nhờ sử dụng phân hữu cơ và chế phẩm sinh học. Thuốc sinh học không chỉ giúp phòng trừ sâu, bệnh mà còn duy trì cân bằng hệ sinh thái đất, giảm áp lực dịch hại về lâu dài, giúp sản xuất ổn định hơn.
Chị Phạm Thị Ngọc Thu (ngụ xã An Lục Long) hiện canh tác hơn 1,7ha thanh long hữu cơ. Chi phí sản xuất ở mức 5.000-6.000 đồng/kg đối với chính vụ và 10.000-12.000 đồng/kg đối với vụ nghịch, giúp lợi nhuận được bảo đảm và người trồng yên tâm đầu tư lâu dài. Theo chị Thu, sản xuất hữu cơ giảm rủi ro, không lo dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Những bệnh khó trị như đốm nâu, đốm trắng hay nấm tắc kè không thể xử lý bằng thuốc đặc trị mà phải phòng ngừa bằng quy trình kỹ thuật, giữ vườn thông thoáng, sử dụng nấm đối kháng và chế phẩm sinh học.
Không chỉ cây thanh long, cây dừa - loại cây trồng quen thuộc tại nhiều vùng nông thôn cũng đang được tái định vị giá trị thông qua hướng sản xuất hữu cơ, sinh học. Tại Hợp tác xã (HTX) Dịch vụ Nông nghiệp Dừa Việt 78 (xã Phước Vinh), Giám đốc HTX Nguyễn Văn Tiến lựa chọn con đường làm nông nghiệp thuận tự nhiên, lấy sức khỏe của đất và hệ sinh thái làm nền tảng. Theo anh Tiến, trước đây, dừa chủ yếu được chăm sóc theo kinh nghiệm, khi sâu, bệnh xuất hiện thì dùng thuốc hóa học xử lý nhanh. Cách làm này tuy hiệu quả tức thời nhưng về lâu dài khiến đất bạc màu, hệ vi sinh vật suy giảm, cây dễ suy kiệt. Từ thực tế đó, HTX từng bước chuyển sang canh tác theo hướng hữu cơ, loại bỏ phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật tổng hợp.
Mô hình trồng dừa theo hướng hữu cơ, thuận tự nhiên tại Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp Dừa Việt 78
Trong quá trình sản xuất, HTX ưu tiên sử dụng phân bón hữu cơ hoai mục, chế phẩm vi sinh để cải tạo đất, tăng sức đề kháng cho cây. Một số biện pháp sinh học như sử dụng muối biển với liều lượng phù hợp được áp dụng nhằm hạn chế sâu, bệnh, đồng thời cải thiện độ ngọt của trái dừa. Nhờ canh tác thuận tự nhiên, vườn dừa sinh trưởng ổn định, ít phát sinh dịch hại, cây khỏe và cho trái đều.
Song song với tổ chức sản xuất, HTX chú trọng minh bạch hóa quy trình canh tác. Trái dừa được gắn mã QR truy xuất nguồn gốc, cung cấp thông tin về vùng trồng và phương thức sản xuất hữu cơ. Đây không chỉ là yêu cầu của thị trường mà còn là cách để khẳng định giá trị thật của nông sản hữu cơ, tạo niềm tin cho người tiêu dùng.
Cùng với thanh long và dừa, cây chanh đang trở thành đối tượng được nhiều nông dân Tây Ninh lựa chọn chuyển đổi sang hướng sản xuất hữu cơ, sinh học. Tại HTX Dịch vụ Nông nghiệp Thạnh Hòa (xã Thạnh Lợi), quá trình này không chỉ thay đổi kỹ thuật canh tác mà còn tạo bước chuyển từ sản xuất nhỏ, lẻ sang làm nông nghiệp theo chuỗi giá trị.
Trước đây, phần lớn diện tích chanh được canh tác theo phương thức truyền thống, phụ thuộc vào phân bón hóa học, sản phẩm tiêu thụ qua thương lái với giá cả bấp bênh. Nhận thấy rủi ro, HTX từng bước tổ chức lại sản xuất, áp dụng quy trình VietGAP, tiến tới canh tác theo hướng hữu cơ, sinh học với khoảng 30ha chanh không hạt, có 15 thành viên tham gia.
Giám đốc HTX Dịch vụ Nông nghiệp Thạnh Hòa Đặng Văn Phải cho biết, khi sản xuất theo hướng sạch, sản phẩm được kiểm soát đồng đều về chất lượng, có truy xuất nguồn gốc, đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp thu mua. Nhờ đó, trái chanh của HTX không chỉ tiêu thụ ổn định trong nước mà còn đủ điều kiện xuất khẩu sang thị trường EU.
Sản xuất chanh theo hướng hữu cơ, sinh học tại Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp Thạnh Hòa gắn với tiêu thụ theo chuỗi giá trị
Theo ông Nguyễn Ngọc Bộ - thành viên HTX, lợi ích lớn nhất của canh tác hữu cơ là cải tạo đất đai. Sau vài năm sử dụng phân hữu cơ và vi sinh, đất vườn chanh tơi xốp hơn, cây sinh trưởng bền, trái ra đều và chất lượng ổn định.
Hướng đi tất yếu
Trước yêu cầu tái cơ cấu ngành Nông nghiệp gắn với thích ứng biến đổi khí hậu và hội nhập thị trường, ngành Nông nghiệp và Môi trường tỉnh xác định phát triển nông nghiệp hữu cơ là một trong những định hướng trọng tâm. Theo đó, tỉnh tập trung hình thành các vùng sản xuất tập trung theo hướng hữu cơ, sinh học đối với những cây trồng chủ lực như thanh long, dừa, rau màu và cây ăn trái.
Ngành Nông nghiệp sẽ đẩy mạnh chuyển giao khoa học - kỹ thuật, hỗ trợ nông dân, HTX áp dụng các quy trình sản xuất an toàn; khuyến khích sử dụng phân bón hữu cơ, chế phẩm sinh học; hỗ trợ xây dựng mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị.
Mục tiêu xuyên suốt là giúp nông dân chuyển từ tư duy sản xuất nhỏ, lẻ sang làm nông nghiệp chuyên nghiệp, lấy chất lượng, an toàn và bền vững làm thước đo hiệu quả, qua đó xây dựng nền nông nghiệp Tây Ninh phát triển ổn định, thích ứng lâu dài với yêu cầu của thị trường và môi trường sinh thái./.
