Mặt trận phản gián: Cuộc chiến cân não - Bài 2: Những người “viết lại kịch bản”
Tây Bắc đầu những năm 1960, một “vở kịch” đặc biệt lặng lẽ được dựng lên, nơi những chiến sĩ Công an nhân dân lấy trí tuệ, bản lĩnh và lòng trung thành làm vũ khí, khéo léo dùng chính người và phương tiện của địch để đánh lại địch. Thậm chí, họ “viết lại kịch bản” của đối phương, từng bước dẫn dắt và chủ động kiểm soát tình hình.
Nước cờ quyết liệt
Từ giữa năm 1961, Mỹ và chính quyền Sài Gòn mở chiến dịch tung gián điệp biệt kích ra miền Bắc bằng đường hàng không, đường bộ, đường biển; trong đó tập trung vào đường hàng không, trọng điểm là vùng núi Tây Bắc và phụ cận - nơi địa hình hiểm trở, rừng núi trùng điệp, dân cư thưa thớt, tuyến biên giới dài và nhiều lối mòn qua lại. Đây là điều kiện thuận lợi để đối phương ẩn náu, di chuyển.
Trong bối cảnh đó, chuyên án PY27 được xác lập - chuyên án gián điệp biệt kích đầu tiên xâm nhập miền Bắc bằng đường hàng không, thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Tên chuyên án gắn với sự kiện đêm 27-5-1961, khi toán biệt kích Castor nhảy dù xuống điểm cao 828, bản Hỳ, xã Phiềng Ban, châu Phù Yên, tỉnh Nghĩa Lộ (nay là Sơn La).
Theo cuốn Cách chúng tôi làm chương trình bí mật xâm nhập miền Bắc Việt Nam 1961-1964 của Thomas L. Ahern Jr., nhiệm vụ Mỹ và chính quyền Sài Gòn giao cho Castor không chỉ là phá hoại, mà còn thu thập tình báo về sự hỗ trợ của miền Bắc đối với lực lượng cách mạng Lào trên tuyến đường 6 nối hai nước. Kỳ vọng của đối phương rất lớn, nhưng điều chờ đón chúng lại là thế trận phản gián được chuẩn bị kỹ lưỡng. Ban chuyên án triển khai kế hoạch chu đáo.
Trưa 9-6-1961, tên hiệu thính viên của “Castor” được bố trí chắp nối phiên liên lạc đầu tiên, dưới sự giám sát chặt chẽ. Nội dung điện do ta soạn sẵn gửi về trung tâm đối phương: “Castor đã xuống mặt đất an toàn, đang chuẩn bị liên lạc với cơ sở và đề nghị tiếp tế”. Bốn ngày sau, đối phương hẹn tiếp tế. Tuy nhiên, chuyến tiếp tế đầu tiên bằng máy bay C47 đêm 2-7-1961 gặp sự cố, máy bay rơi xuống vùng đầm lầy gần nông trường Bình Minh (Kim Sơn, Ninh Bình). Hai tên giặc lái chết, tám tên sống sót, trong đó có phi công trưởng bị Công an nhân dân vũ trang và dân quân bắt giữ.
Để giữ bí mật chuyên án và qua mắt sự kiểm tra gắt gao, ban chỉ đạo xây dựng kế hoạch “hợp lý hóa” hoạt động của Castor, cử tổ trinh sát đi cùng, di chuyển theo yêu cầu của trung tâm địch. Trong 8 tháng, ta vừa đấu trí, vừa kiên nhẫn kiểm tra mật khẩu an ninh, mật khẩu thông tin, mật khẩu cá nhân; điều Castor di chuyển liên tục trong 80km rừng rậm; cho chúng cắt dây điện thoại trên quốc lộ 6…
Mỗi phiên liên lạc, đối phương đều dùng đài phát để xác định vị trí và cho gián điệp mặt đất bí mật kiểm tra. Củng cố niềm tin thêm lần nữa, đối phương ra lệnh Castor đặt thuốc nổ phá cầu Tà Vài trên quốc lộ 6.
Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn trực tiếp chỉ đạo: phối hợp quân đội tạo vụ nổ đủ sức khiến địch tin, nhưng không làm hư hại cây cầu chiến lược. Ban chuyên án đã dựng một vụ nổ lớn trên sườn núi gần cầu, khiến gián điệp mặt đất tin tưởng, trong khi cầu vẫn an toàn tuyệt đối.
Trong suốt thời gian thực hiện “trò chơi nghiệp vụ” với trung tâm địch, ông Hồ Thanh Can (nguyên cán bộ trinh sát kỹ thuật thuộc Bộ Công an, tham gia chống gián điệp biệt kích thời kỳ chống Mỹ ở miền Bắc (1954-1975), nguyên Trưởng Phòng Thông tin liên lạc, Cục Viễn thông và Cơ yếu, Bộ Công an), cán bộ trực tiếp biên soạn tài liệu quy ước bố trí mạng đài, tên gọi, tần số liên lạc, kể lại: “Bây giờ khi nhắc về chuyên án, tôi không nhớ con số cụ thể đã bố trí bao nhiêu phiên liên lạc, gửi nhận bao nhiêu bức điện.
Chúng tôi chỉ luôn nhớ và tâm niệm lời dặn của lãnh đạo bộ: phải thận trọng, tỉ mỉ, cảnh giác tuyệt đối. Và thực tế, gần 10 năm phục vụ các chuyên án chống gián điệp biệt kích, chúng tôi không để lộ bí mật, không mất liên lạc, không chậm một bức điện nào”.
Một vòng vũ khí
Từ cuối năm 1963 đến cuối năm 1967, đấu tranh chuyên án LH17 (thuộc cụm PY27), ta dụ đối phương thực hiện nhiều lần tiếp tế, bắt 21 tên, thu 128 kiện hàng gồm các loại phương tiện truyền tin, thu tin hiện đại nhất lúc bấy giờ và gần 2.000kg thuốc nổ mạnh.
“Các kiện hàng, thuốc nổ, vũ khí thu được, ta đều tập trung và chi viện vào chiến trường miền Nam. Như vậy, một vòng vũ khí, đạn dược đối phương chuyển từ Nam ra Bắc cho các toán gián điệp, được ta thu gọn để đưa vào Nam tiếp tế tiền tuyến”, Thượng tá Cầm Tuân chia sẻ.
Làm chủ “cuộc chơi”
Những năm tháng ấy, trên tuyến biên giới phía Tây Bắc, mây núi bảng lảng che mờ từng cung đường ngoằn ngoèo, khí hậu khắc nghiệt và phương tiện kỹ thuật còn hạn chế. Với nhiều người, đó là trở ngại lớn, nhưng với các chiến sĩ Công an nhân dân, đó lại là điều kiện để biến nơi đây thành những “mắt trận” thầm lặng, dõi theo từng bước chân của đối phương.
Trong cụm chuyên án PY27, không chỉ một mà có tới 6 chuyên án đồng thời: SM21, TP28, TN28, LH17, HQ12, KS16. Nhiều năm liền, những chuyên án ấy không dừng lại ở việc phát hiện và bắt giữ, mà còn vươn tới trình độ cao hơn: chủ động dẫn dắt, điều khiển hoạt động của đối phương. Trên thực địa, những trận địa giả, những dấu vết mồi nhử được dựng lên không chỉ đánh lừa thị giác, mà còn dẫn dụ đối phương rơi vào thế trận đã định.

Thượng tá Cầm Tuân (trinh sát công an khu Tây Bắc (1963-1969), người trực tiếp tham gia nhiều chuyên án thuộc cụm PY27, trò chuyện cùng phóng viên Báo SSGP. Ảnh: QUANG PHÚC
Thượng tá Cầm Tuân (trinh sát công an khu Tây Bắc (1963-1969), nguyên Trưởng Phòng PC15, nguyên Phó Ban Chỉ huy Cảnh sát, Công an tỉnh Sơn La), người trực tiếp tham gia nhiều chuyên án thuộc cụm PY27, nhớ rõ: “Trung tâm Tình báo Mỹ - chính quyền Sài Gòn tăng cường cho toán Castor nhiều nhóm gián điệp biệt kích, chỉ đạo hoạt động độc lập, riêng rẽ. Tuy nhiên, chúng vẫn bám chặt hai khu vực then chốt sát biên giới Việt - Lào. Để tạo lòng tin tuyệt đối từ trung tâm đối phương, mỗi khi có lệnh phá cầu, ta dựng trận địa giả: dùng giẻ tẩm dầu đốt tạo khói bụi, gây tiếng nổ ở khu vực gần cầu theo đúng kịch bản. Có những lần, như ở cầu Nà Hày (cầu Trắng, Thuận Châu) hay Tà Vài, chúng tin rằng kế hoạch thành công trọn vẹn, nhưng thực chất mọi diễn biến đều trong tầm kiểm soát của ta”.
Song, mặt trận phản gián không chỉ là những cuộc đấu trí lặng thầm. Ẩn sâu trong đó là những hy sinh, mất mát. Đầu năm 1968, trung tâm tình báo của đối phương tiếp tục điều toán Coots và Peseu (hai toán chi viện cho Castor) trở lại huyện Sông Mã, đóng tại xã Pác Ma (nay là xã Bó Sinh, tỉnh Sơn La).
Ký ức vẫn in đậm trong tâm trí Thượng tá Cầm Tuân: “Nhân dịp Quốc tế Lao động 1-5, các đồng chí lãnh đạo trong tổ chuyên án mời thêm lãnh đạo huyện ủy và các anh em vào nghe nói chuyện thời sự... Nhưng chính lúc mọi người mất cảnh giác, hai tên gián điệp biệt kích - vốn đã bị ta khống chế và sử dụng trong nhiều năm, bất ngờ cướp vũ khí, sát hại đồng chí Tiếp (cơ yếu) và đồng chí Quý (chiến sĩ công an vũ trang), rồi đốt lán trại, trốn vào rừng”.
Sự kiện đau lòng ấy khép lại chuyên án SM1 sau gần 5 năm hoạt động (từ 4-9-1963 đến 4-5-1968). Mất mát ấy cũng nhắc nhớ rằng, trong những cuộc đấu trí tưởng chừng chỉ có “quân cờ” di chuyển lặng lẽ, vẫn luôn tiềm ẩn hiểm nguy.
Ở cụm chuyên án PY27, chiến thắng không chỉ đo bằng số toán gián điệp bị xóa sổ, mà còn ở việc ta đã làm chủ được “cuộc chơi” trong đầu đối phương. Khi mọi quyết định của địch từ điểm xâm nhập, thời gian hành động, đến phương thức phá hoại đều bị ta điều hướng, trận địa phản gián đã đạt tới mức “vận dụng trí tuệ làm vũ khí”.
Những câu chuyện được giải mật của cụm PY27 không chỉ là ký ức của một giai đoạn lịch sử, mà còn là minh chứng sống động cho bản lĩnh, trí tuệ và sự hy sinh thầm lặng của lực lượng Công an nhân dân - nơi chiến thắng đến từ trí tuệ Việt Nam: thấu hiểu lòng người, kiên định trước thử thách, mềm mại mà sắc bén đến tận cùng.
Thượng tá Cầm Tuân nhớ lại thử thách lúc đó: “Có bức điện dịch xong rồi nhưng đọc rất khó hiểu, như từ “ngõ hầu”, hoặc “triệt thoái”... Nhiều lần bộ ta thảo điện cho gián điệp biệt kích điện về trung tâm xin tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (tiền miền Bắc lúc đó) và xin các loại giấy tờ tùy thân của miền Bắc. Tôi dự đoán bộ ta muốn “moi” xem bọn Mỹ - ngụy đã có, hoặc làm giả giấy tờ của ta đến mức độ nào để còn đề phòng, nhưng quá trình theo dõi, Mỹ và chính quyền Sài Gòn “mần thinh”, không hề trả lời”.
Để hỗ trợ cho quá trình xâm nhập các địa điểm ở Tây Bắc, đối phương sử dụng nhiều thủ đoạn nghi binh: cho nhiều máy bay quần đảo các điểm khác nhau khiến ta khó xác định máy bay nào thả biệt kích; bắn phá vào mục tiêu cách xa khu vực thả quân để đánh lạc hướng; thả hàng tâm lý chiến, thả nước đá, bao cát; thậm chí thả bom napalm hoặc cho trực thăng hạ cánh bên kia biên giới Việt - Lào.
Bảo mật cho các toán gián điệp biệt kích, ngôn ngữ trong các bức điện cũng được chúng cài cắm, pha tiếng Anh lẫn tiếng Pháp và cả những từ cũ trong tiếng Việt.