Bảo vệ môi trường phải là nền tảng của phát triển bền vững
Theo Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, cần xác định bảo vệ môi trường là trụ cột để xác lập mô hình tăng trưởng mới, đồng nghĩa với việc không đánh đổi lợi ích ngắn hạn để bảo đảm lợi ích dài hạn.
Tại Hội thảo “Góp ý Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức ngày 7/11, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam đã có báo cáo, đóng góp ý kiến.
Bảo vệ môi trường là trụ cột để xác lập mô hình tăng trưởng mới
Kiến nghị thứ nhất về việc bổ sung nhiệm vụ “Bảo vệ môi trường” cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ “trung tâm”, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam hoàn toàn thống nhất với quan điểm chỉ đạo của Trung ương về việc bổ sung “bảo vệ môi trường” cùng với phát triển kinh tế, xã hội là nhiệm vụ “trung tâm” trong giai đoạn tới, vấn đề mà các mô hình phát triển thành công ngày càng khẳng định.
Tuy nhiên, nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong mô hình phát triển bền vững cần được hiểu, được quán triệt theo nghĩa đầy đủ và hệ thống nhất: Bảo vệ môi trường phải bao gồm bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ thiên nhiên, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, chủ động phòng, chống và giảm nhẹ tác hại của thiên tai và tăng cường quản lý, khai thác hợp lý các dạng tài nguyên thiên nhiên.
Hơn nữa, theo Lý thuyết kinh tế mới, bảo vệ môi trường phải là nền tảng của phát triển bền vững, tức là đúng như dự thảo Văn kiện đã đề cập, cần xác định bảo vệ môi trường là trụ cột để xác lập mô hình tăng trưởng mới, đồng nghĩa với việc không đánh đổi lợi ích ngắn hạn để bảo đảm lợi ích dài hạn cho quốc gia và các thế hệ tương lai. Chúng tôi cũng rất mong rằng, các cam kết quốc tế về phát triển kinh tế xanh, về trung hoà các-bon vào năm 2050, những dự kiến về việc áp dụng cơ chế định giá chi phí môi trường, về thuế sinh thái, về thị trường tín chỉ các-bon cũng như việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường sẽ được sự bảo đảm thực thi nhanh chóng, có kết quả trên thực tế.
Nội hàm “Văn hóa”, cần hàm chứa nội dung “Văn hóa môi trường”
Kiến nghị thứ hai: Về văn hoá, con người là nền tảng, nguồn lực, sức mạnh nội sinh và là động lực to lớn, hệ điều tiết sự phát triển xã hội bền vững. Hội Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam hoàn toàn thống nhất với với nhận định cho rằng, một trong những luận điểm rất cơ bản trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV thể hiện sinh động nhận thức mới của Đảng là về vai trò của văn hoá, con người là nguồn lực sức mạnh nội sinh và là động lực to lớn trong xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xin nhấn mạnh rằng, trong nội hàm “Văn hóa”, cần hàm chứa nội dung “Văn hóa môi trường” mà đặc điểm lớn nhất của nó là cần phải thay đổi cung cách ứng xử với thiên nhiên vốn đã bị khai thác quá mức. Để xây dựng một nền văn hóa môi trường tiên tiến, hiện đại trên cơ sở kế thừa các yếu tố văn hóa tích cực của các giá trị văn hóa dân tộc trong quá khứ, làm nội lực phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời gian tới, nhất thiết phải có những chuyển biến cơ bản, chiến lược từ quan niệm, nhận thức đến các hành vi ứng xử với thiên nhiên, môi trường, phù hợp với các tiêu chuẩn đạo đức mới – đạo đức môi trường trong một xã hội thân thiện môi trường, lấy phát triển xanh, phát triển bền vững làm một trong các đích hướng tới.
Đạo đức môi trường là một lĩnh vực mới xuất hiện, có lẽ cùng thời kỳ với việc hình thành quan niệm phát triển bền vững. Đạo đức môi trường là một phương diện của đạo đức chung, thể hiện và thực hiện đạo đức của con người, trong quan hệ giữa con người và tự nhiên. Thể hiện tinh thần này, tháng 6/1997, Tuyên bố Soul về đạo đức môi trường đã được công bố, đánh dấu bước tiến bộ quan trọng về nhận thức.
Theo đó, 4 nguyên tắc của đạo đức môi trường gồm: (i) Xây dựng nền văn hóa tinh thần như một đòi hỏi về sự cân bằng giữa các mục tiêu vật chất và mục tiêu tinh thần mà loài người phấn đấu cho sự sinh tồn của mình; (ii): Bình đẳng về môi trường giữa các quốc gia, các nhóm cộng đồng, mọi người và các thế hệ hiện tại và tương lai; (iii): Xanh hóa khoa học và công nghệ và (iiii): Chia sẻ trách nhiệm trong bảo vệ môi trường trong ứng xử với thiên nhiên giữa các quốc gia, lĩnh vực, nhóm xã hội...
Theo Nghị quyết Trung ương số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã nhận định, thời gian qua chúng ta đã quan tâm tới vấn đề này, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nguyên nhân chính của những hạn chế, yếu kém này là nhận thức và tầm nhìn chưa đầy đủ, thiếu thống nhất. Vì vậy, Nghị quyết số 24-NQ/TW đưa ra giải pháp chủ yếu hàng đầu là “Tăng cường, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, hình thành ý thức chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, sử dụng tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường”, trong đó đề cập tới nội hàm “hình thành các thiết chế văn hóa, đạo đức môi trường trong xã hội”, điều mà Hội chúng tôi rất mong được dự thảo các Văn kiện Đại hội lần này cần có sự phản ánh đầy đủ, nhất quán, kể cả trong dự thảo Kế hoạch hành động lần đầu tiên được Đại hội toàn quốc của Đảng đề cập.
Huy động sức mạnh cộng đồng trong bảo vệ môi trường
Kiến nghị thứ ba về việc tăng cường củng cố và phát huy hiệu quả sức mạnh của Nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong bảo vệ môi trường. Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam nhất trí nhận định rằng, việc tăng cường củng cố và phát huy hiệu quả sức mạnh của Nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc là bài học kinh nghiệm quý báu mang tầm lý luận, có giá trị định hướng thực tiễn cho sự nghiệp cách mạng của đất nước trong kỷ nguyên phát triển mới.
Trong lĩnh vực tài nguyên thiên nhiên và môi trường, vai trò đặc biệt của cộng đồng càng phải được đánh giá đúng mức, đầy đủ và phải được vận dụng một cách sáng tạo hơn nhiều so với thực tiễn hiện nay. Vai trò của cộng đồng trong nhiều lĩnh vực hoạt động liên quan đến tài nguyên và môi trường nhiều khi không chỉ là quan trọng, mà còn mang tính quyết định. Chẳng hạn, sau 15 năm phát động và tổ chức sự kiện “Bảo tồn Cây Di sản Việt Nam” (2010 – 2025) với việc công nhận trên 8.000 cây thuộc hơn 160 loài phân bổ ở khắp 34 tỉnh và thành phố cho thấy, nếu huy động được sức mạnh của cộng đồng thì mọi vấn đề liên quan bảo vệ môi trường đều có thể thành công.
Kinh nghiệm cho thấy, thành công của việc huy động sức mạnh cộng đồng phụ thuộc rất nhiều vào việc áp dụng khôn khéo phương pháp tiếp cận mới mà Hội đã nghiên cứu và áp dụng trong hơn 20 năm qua; phương pháp được viết tắt tiếng Anh là TAI (The Access Initiative): theo đó, cần làm tốt và đồng bộ 4 hợp phần chính sau đây: (i): Bảo đảm cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết cho cộng đồng; (ii): Tạo mọi điều kiện để cộng đồng chủ động tiến hành các hành động bảo vệ môi trường; (iii): Bảo đảm cơ sở pháp lý và (iiii): không ngừng tăng cường năng lực cho cộng đồng bảo vệ môi trường. Đấy cũng là những điều mà Hội chúng tôi mong muốn được thực thi trong thời gian tới.
Ô nhiễm môi trường chỉ là một phần của chất lượng môi trường
Kiến nghị thứ tư: Xin được nghiên cứu, sửa chữa, bổ sung một số nội dung cụ thể trong Báo cáo Chính trị: 4.1. Sửa “Ô nhiễm môi trường” thành “Chất lượng môi trường” trong đoạn nói về tài nguyên và môi trường, vì “ô nhiễm môi trường” chỉ là một phần của “chất lượng môi trường” Như vậy, đoạn mới sẽ đọc là: “Chất lượng môi trường chưa được kiểm soát hiệu quả, có mặt còn trầm trọng hơn, nhất là …”.
4.2. Sửa “Phát triển kinh tế - xã hội” trong phần nói về bối cảnh trong nước thành “Phát triển” hoặc “Phát triển kinh tế - xã hội – môi trường” vì như vậy mới phù hợp với quan điểm phát triển bền vững gồm 3 trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường. Như vậy, đoạn mới sẽ đọc là: “Phát triển chưa bền vững” hoặc “Phát triển kinh tế - xã hội – môi trường chưa bền vững”.
4.3. Bổ sung 1 đoạn chuyển tiếp vào mục “IX. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu”: Như vậy, Báo cáo chính trị sẽ có thêm đoạn: “…Cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường ngang tầm với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, đặc biệt là chất lượng không khí ở các đô thị lớn và khu công nghiệp tập trung. Bảo vệ và gìn giữ tài nguyên thiên nhiên như là nền tảng, là nguồn lực tự nhiên cơ bản cho phát triển bền vững đất nước…”.
4.4. Bổ sung “Chuyển đối xanh”, một trong những nội hàm quan trọng của phát triển bền vững vào quan điểm 3 của Báo cáo chính trị.
Như vậy, quan điểm 3 mới sẽ đọc là: “Xác định mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và chuyển đổi xanh là động lực chính…”.
4.5. Bổ sung quan điểm và giải pháp của Nghị quyết 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về vấn đề “Doanh nhân” vào việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Như vậy, Báo cáo chính trị nên bổ sung quan điểm về “Khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân trong kỷ nguyên mới”.
